Bá Tước Dracula - Chương 07 phần 2

Unmute
Advertisement
Loaded: 0%
Progress: 0%
Remaining Time-0:23
Skip ad
Đến 14 tháng 7 thì thủy thủ đoàn trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng đã từng đi biển với tôi. Thuyền phó không thể hiểu được đang xảy ra chuyện gì. Họ chỉ nói với ông ta là có một CÁI GÌ ĐÔ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với một người trong bọn họ và đánh anh ta. Một cuộc ẩu đả hẳn sẽ nổ ra, nhưng tất cả vẫn im lặng.
Đến ngày 16 tháng 7 thì thuyền phó trong buổi sáng hôm đó đã phát hiện một trong số thủy thủ đoàn, Petrofsky, đã mất tích. Không thể tìm thấy anh ta. Vào tám giờ tối hôm trước anh ta đi lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng không trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều nói rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng không nói gì hơn là có một CÁI GÌ ĐÔ ở trên boong. Thuyền phó đã mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối sẽ vẫn còn tiếp tục.
Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, một người trong bọn họ, Olgaren đã đi vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, anh ta kể với tôi rằng anh ta nghĩ là có một người đàn ông lạ ở trên tàu. Anh nói rằng khi anh ra trú một cơn mưa bảo ở căn phòng dưới boong tàu, thì anh ta thấy một người đàn ông cao, gầy, chẳng giống một ai trong số thủy thủ đoàn, đi theo lối đi dẩn lên, đi một mình lên boong và biến mất. Anh ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu thì chẳng thấy một ai, còn những cánh cửa sập vẫn được đóng chặt. Anh ta hoảng lạn trong một nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hoảng lạn này sẽ còn lan rộng. Để trấn an anh ta, tôi sẽ tổ chức một cuộc kiểm tra vào thứ hai trên toàn bộ con tàu từ đầu đến cuối.
Đến khuya tôi tập hợp toàn bộ thủy thủ đoàn, nói rằng do họ tin chắc là có ai lạ trên tàu, chúng tôi sẽ kiểm tra toàn bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, nói rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo một ý kiến nhảm nhí như vậy sẽ chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa sẽ giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng một cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta đi lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu một cuộc kiểm tra, đi cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi không bỏ qua một ngóc ngách nào. Và ngoài những cái thùng gỗ kia, thì không còn một ngóc ngách khốn kiếp nào mà một con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông không nói gì.
Ngày 22 tháng 7. - Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, không ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như đã quên phắt đi mối sợ hãi kinh khiếp của mình.
Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người đã tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.
Ngày 24 tháng 7. - Những điều tồi tệ lại xảy ra trên tàu. Sau một chặng đường ngắn, chúng tôi đi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại một người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, anh ta thực hiện phiên gác của mình, và không ai thấy lại anh nữa. Tất cả mọi người đều hoảng loạn trong sợ hãi, và đưa ra một bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác sẽ có hai người, do họ sợ ở một mình. Thuyền phó nổi giận.
Sợ sẽ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đoàn dùng đến bạo lực.
Ngày 28 tháng 7. - Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. Không ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. Không sắp gác được vì mọi người đều không còn sức lực nữa.
Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu đi, nhưng biển cả xem ra vẫn còn ghê rợn, và con tàu vẫn là nơi mọi người tin tưởng hơn.
Ngày 29 tháng 7. - Lại một bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác một mình, do thủy thủ đoàn đã quá mệt để có thêm ai gác đôi với anh ta. Đến sáng thì người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng không ai tìm thấy. Bây giờ thì chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đoàn hoảng loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.
Ngày 30 tháng 7. - Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi đã gần đến nước Anh. Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. Sự mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để nói rằng cả người gác và người lái đã biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa trên con tàu.
Tháng 1 tháng 8. - Hai ngày chìm đắm trong sương mù và không thấy một cánh buồm nào khác. Đã hy vọng rằng khi đến được Kênh đào Anh thì có thể yêu cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. Không còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn đi. Lòng can đảm không suy giảm, nhưng không thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như đang bị cuốn trôi vào một địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hoảng loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta.
Thủy thủ đã vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bỉ làm việc, sẵn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.
Ngày 2 tháng 8. - Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngoài phòng của tôi. Không thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. Nói với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Lại một người nữa ra đi. Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó nói rằng chúng tôi đã đi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta đã nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ đã trôi dạt đến vùng Biển Bắc, thì chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù đang bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như đã bỏ rơi tôi rồi.
Ngày 3 tháng 8. - Lúc nữa đêm tôi đi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi không thấy ai cả. Gió vẫn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này thì chúng ta không thể đi chệch hướng. Tôi không dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thì thầm bằng một giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong không khí. "Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi đã thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngoài. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua không khí vậy."
Và khi ông nói, ông vung mạnh dao găm trong không trung một cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, "Nhưng Nó đang ở đây, và tôi sẽ tìm ra Nó. Nó có thể là sẽ nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi sẽ mở tung chúng từng cái một. Ngài giữ tay lái." Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta đi xuống. Tôi thấy ông ta xuất hiện trên boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi đi xuống cửa sập. Ông ấy thật sự là điên cuồng, hoàn toàn điên cuồng, và tôi không thể cản ông lại được.
Ông ta không thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và không thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan đi. Rồi lúc đó, nếu tôi không thể cập vào một hải cảng nào khi gió vẫn thổi như thế này, tôi sẽ cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu...
Bây giờ hình như là mọi chuyện đã qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó sẽ bình tĩnh hơn và đi ra, thì tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào một cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình lình từ cửa sập vang lên một tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hoảng loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. "Cứu tôi với! Cứu tôi với!" ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. Sự hoảng loạn của ông chuyển thành sự tuyệt vọng, rồi với một giọng bình thản ông ta nói, "Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn.
Hắn ở đây! Tôi đã biết điều bí mật rồi. Đại dương sẽ bảo vệ tôi trước Hắn, và đấy là tất cả những gì còn lại!" Trước khi tôi kịp nói lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này thì tôi nghĩ rằng tôi cũng đã biết được điều bí mật. Đấy là một người điên đã lần lượt ném từng người trong thủy thủ đoàn xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ thì điều đó xảy ra?
Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh không thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đã đến vì tôi là một thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi không dám đi xuống, tôi không dám rời tay lái, và tôi đã ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi đã thấy nó. Hắn! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó đã làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như một con người. Để chết như một thủy thủ giữa làn nước xanh, không ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi không thể bỏ con tàu của mình.
Nhưng tôi sẽ chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi sẽ trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi sẽ buộc vào thêm một thứ mà Hắn, Nó, sẽ không dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi sẽ bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi đang trở nên yếu hơn, và bóng đêm đang xuống dần. Nếu Hắn lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, tôi sẽ không còn thời gian để hành động... Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này sẽ được tìm thấy, và người nào đọc nó sẽ hiểu. Nếu không... được thôi, mọi người sẽ biết là tôi đã là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh sẽ giúp cho một linh hồn tội nghiệp ngu dại đang cố thực hiện nhiệm vụ của mình...
Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. Không có bằng chứng nào được đưa ra, không có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là một anh hùng, và anh ta xứng đáng có một lễ tang bởi quần chúng. Theo sự sắp xếp, thi hài của anh sẽ được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang trên vách đá. Chủ nhân của hơn một trăm chiếc thuyền đã yêu cầu được cử đại diện đi theo đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy sẽ là một đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng anh ta sẽ được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ sẽ cử hành, và nó sẽ là sự chấm hết cho thêm một "bí ẩn của biển cả."
NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY
Ngày 8 tháng 8. - Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng không sao ngủ được. Bảo táp thật là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưởi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà không làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải một chướng ngại nào trên đường đi, bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy đang thức vậy.
Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và đi ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay không. Vẫn còn rất đông người trên cảng, và dù mặt trời sáng rực, không khí thoáng đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẫn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa trên đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như một kẻ hung hãn đang lao vào đám đông. Ở một chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan không ở trên biển tối hôm qua, mà là ở trên bờ. Nhưng, than ôi, anh ấy đang ở trên biển hay ở trên đất liền? Anh ấy đang ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho anh. Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho anh!
Ngày 10 tháng 8. - Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia đã gần xong. Mọi chiếc thuyền trên bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng trên khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy đi với tôi, và chúng tôi đi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở đi trên thuyền đi lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có một vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy toàn cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương đã an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra.
Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn không yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua đang quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có một cái gì đó rất lạ. Bạn ấy không thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi sự bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng không thể tự hiểu thực sự điều đó là gì.
Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp đã chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ nói rằng ông ấy rõ ràng đã rất sợ hãi một cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sự sợ hãi và kinh dị còn hiện rõ trên mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân yêu!
Lucy thật dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy đang rất phiền muộn vì một điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.
Có một người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với một chú chó đi theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, thì con chó không lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im đi, rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông không sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông thật man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.
Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó một cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó không tìm cách chạy đi, nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông một trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.
Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy không cố để chạm vào con chó, nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có một bản năng siêu nhiên để run sợ mà không nói nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy sẽ nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều đang được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi một người chết, những điều anh ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc thì khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên một giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.
Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi sẽ cùng bạn ấy đi bộ trên những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy sẽ chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.