Bá Tước Dracula - Chương 07 phần 1

Unmute
Advertisement
Loaded: 0%
Progress: 0%
Remaining Time-0:22
Skip ad
Chương 7 : (ĐƯỢC DÁN TRONG NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY)
Theo tin của phóng viên.
Whitby.
Một trong những cơn bảo hung hãn và bất ngờ nhất mà người ta ghi nhận lại được đã diễn ra ở đây, mà kết quả để lại của nó thật lạ lùng và khó tin. Thời tiết gần đây có vẻ khá oi bức, nhưng cũng không đến nỗi quá đặc biệt trong tiết tháng Tám này. Chiều chủ nhật vẫn đẹp trời như thường lệ, và lượng khách du lịch khổng lồ đổ dồn về hôm qua được dẩn đi thăm Rừng Mulgrave, Vịnh Robin Hood, Đồi Rig, Runswick, Staithes và những địa danh du lịch khác chung quanh Whitby.
Những con tàu hơi nước thực hiện những chuyến du hành lên xuống bờ biển, và số lượng khách du lịch đến và đi Whitby tăng lên một cách bất thường. Sự bất thường tuyệt diệu đó kéo dài đến tận trưa, cho đến khi một số tin đồn được lan ra từ Vách đá Phía Đông khu nhà thờ, rằng giáo chủ ra lệnh hãy để quang bờ biển phía bắc và phía tây, để có thể thuận tiện quan sát sự xuất hiện của hiện tượng "đuôi ngựa cái" trên bầu trời phương bắc. Gió nam thổi mơn man, mà nói theo ngôn ngữ khí tượng học là "Gió cấp hai, thổi nhẹ."
Những người lính tuần duyên làm những bản báo cáo theo đúng chức năng của mình, và một người đánh cá già, người đã hơn nữa thế kỷ quan sát những dấu hiệu của thời tiết từ Vách đá Phía Đông, tiên đoán dứt khoát về một cơn bảo sắp diễn đến thình lình. Hoàng hôn diễn ra đẹp tuyệt vời, với những đám mây hòa lẫn nhiều sắc màu pha trộn thành một bức tranh hùng vĩ, khiến cho một khối lượng lớn khách đi dạo trên vách đá nằm trên khu nghĩa địa gần nhà thờ đã tập trung lại để thưởng thức cảnh đẹp.
Trước khi mặt trời chìm hẳn vào bóng đêm của Kettleness, nó liều lĩnh đi xuyên qua vùng trời phía tây, khiến quá trình lặn dần của nó tạo nên vô số những đám mây sặc sỡ với những màu sắc đặc trưng cho buổi hoàng hôn, hồng lửa, tía, hồng cẩm chưởng, xanh lá cây, tím violet và tất cả các cung bậc khác nhau của sắc vàng, pha trộn với những mãng đen đây đó với nhiều hình dạng khác nhau, phác họa lên một hình bóng đêm đen thật ấn tượng. Cảnh đẹp chiều nay chẳng thể nào phai mờ trong tâm hồn những người nghệ sĩ, và không còn nghi ngờ gì nữa, những nét phác thảo về bức tranh "Khúc dạo đầu cho Cơn Bảo Lớn" sẽ làm rạng danh cho những bức tường của R.A và R.I vào tháng Năm tới.
Nhiều loại tàu khác nhau đã được thuyền trưởng của mình cho cập vào cảng, với ý định ở lại đây cho đến khi bảo tan. Gió đã tắt hẳn trong suốt chiều, và đến nữa đêm thì không khí vô cùng oi bức và ngột ngạt do không còn một chút gió biển nào, và tiếp theo một cách thường lệ là những tiếng sấm vang dội làm run sợ những người yếu bóng vía.
Có vài ánh chớp lóe lên trên biển, chiếu sáng những con tàu chạy hơi nước được neo chắc gần cột chống trên bờ biển, và vài chiếc thuyền đánh cá khác. Chiếc tàu duy nhất ngoài khơi là một chiếc thuyền buồm ngoại quốc với tất cả các cánh buồm được giương lên, hình như định đi về phía tây. Sự liều lĩnh hoặc ngây thơ của những kẻ điều khiển chiếc tàu buồm này làm dội lên những tiếng bình luận không ngớt trong khi nó còn được nhìn thấy, trong lúc mọi người cố gắng ra hiệu cho nó biết sự nguy hiểm đang ập đến với chuyến đi của nó.
Trước khi đêm xuống hẳn chiếc thuyền buồm còn được trông thấy bềnh bồng giữa những cơn sóng chập chờn của biển cả một cách bình thản.
"Nó bình thản như một con tàu được vẽ trên một bức tranh về biển."
Gần đến mười giờ, thời tiết vẫn oi bức, và sự im lặng bao trùm làm nổi bật lên những tiếng kêu của bầy cừu, những tiếng sủa xa xăm của lũ chó bên trong thị trấn, khiến cho giữa hai đầu bờ đê như chìm trong một buổi hòa âm lặng lẽ của thiên nhiên mang đầy đặc trưng của nước Pháp. Sau nữa một chút thì một một tiếng động lạ vọng lại từ bờ biển, và một vang trong không khí là một tiếng nổ lớn vọng về từ xa vắng.
Rồi thình lình cơn bảo ập đến mà chẳng có gì báo trước. Với một tốc độ nhanh đến mức không tưởng, mà sau đó người ta không thể hình dung lại được, toàn bộ thiên nhiên như bùng lên một cơn chấn động khôn cùng.
Những cơn sóng hung hãn dâng cao, đợt này nối tiếp đợt khác, làm cho biển cả chỉ đang êm ả mới đây nay trở nên hung hăng và cuồng nộ như một con quái vật. Những cơn sóng điên cuồng tràn lên bãi cát và cuốn đi mọi thứ trên vách đá. Những cơn sóng khác công phá vào bến tàu, bọt sóng tung tóe đến tận những ngọn đèn hải đăng treo ở hai đầu Cảng Whitby.
Gió biển gầm vang như cơn sấm sét, và thổi mạnh đến nỗi ngay cả một người khỏe mạnh cũng khó có thể đứng vững trên đôi chân của mình nếu như không được móc chặt vào một cây cột thép. Người ta thấy rõ là cần phải giải tán ngay cái đám đông khổng lồ đang tập trung ở chỗ móng đê, nếu không thì sự thiệt hại do cơn bảo gây ra trong đêm nay sẽ càng gia tăng lớn hơn. Thêm vào cho những sự khó khăn và nguy hiểm của tình thế, một bầy lớn những con hải cẩu tràn vào bờ. Cái đám đông trắng và ẩm ướt kia lập tức bị quét đi một cách ma quái bởi bầy thú nhám nhúa, đen đúa và lạnh giá này. Có thể tưởng tượng rằng linh hồn của những con hải cẩu đã bị chết ngày xưa trong biển cả đã chạm những bàn tay lạnh giá của cái chết vào những đồng loại của chúng, và nhiều người chợt rùng mình khi màn sương cuồn cuộn của biển cả tan ra.
Ngay khi sương tan ra, trên mặt biển chớp lên một vầng hào quang sáng chói, rực rỡ và mau chóng, tiếp theo là hàng loạt những tiếng gầm của sấm sét khiến cho cả bầu trời cao như run rẩy dưới những bước chân hung hãn của bảo tố.
Quang cảnh đang diễn ra có một dáng vẻ hùng vĩ khôn tả và thu hút hết thần trí của con người. Biển cả cuộn lên những cơn sóng cao như những ngọn núi, tung lên trời những đám bọt trắng xóa, giống như thiên nhiên đang muốn vồ lấy mọi thứ và ném chúng vào giữa khoảng không vô tận. Thấp thoáng những chiếc thuyền đánh cá, buồm rách tả tơi, đang cuống cuồng tìm kiếm một chỗ ẩn nấp giữa thiên nhiên hung dữ, là những đôi cánh trắng của những con hải âu đang bị dập vùi giữa các đợt sóng khổng lồ. Trên đỉnh của Vách Đá Phía Đông có một cây đèn pha lớn đang vừa được đưa ra thử nghiệm, nhưng chưa được sử dụng lần nào.
Bây giờ thì những nhân viên phụ trách của nó đang bắt đầu điều khiển, và ánh sáng của nó xua tan đi bóng tối rọi sáng bề mặt của biển cả. Sự nỗ lực của nó cũng có tác dụng được một hai lần, khi mà chiếc thuyền đánh cá đã bị nước tràn qua mép đã có thể tìm về cảng một cách an toàn dưới sự điều khiển của ánh đèn pha, tránh được mối nguy hiểm va vào các chân đê. Khi mỗi chiếc thuyền đánh cá an toàn về đến cảng thì đám đông đứng bên bờ biển lại kêu lên những tiếng vui mừng, những tiếng kêu như muốn xua tan cơn bảo và tống khứ chúng đi.
Chẳng mấy chốc chiếc đèn pha đã phát hiện ra từ phía xa một con thuyền buồm nhỏ với những cánh buồm giương cao, rõ ràng nó chính là chiếc thuyền đã gây nên sự chú ý ban chiều. Gió bây giờ đã thổi ngược về phía Đông, và một cái rùng mình lan đi giữa đám đông khi họ nhận thức rõ mối nguy hiểm mà chiếc thuyền đang phải đương đầu.
Giữa con tàu này và cảng là một dãi đá ngầm lớn đã mà qua nhiều thế hệ đã làm bao con thuyền phải khốn khổ, và với hướng gió hung hãn như thế này, khó mà con thuyền kia có thể về đến cảng.
Thủy triều càng lúc càng dâng cao, các cơn sóng càng lúc càng mạnh, chúng gần như đã nuốt chửng bờ biển, và chiếc tàu buồm kia, với tất cả các cánh buồm vẫn giương cao, vẫn lướt đi băng băng. Người ta nghe thấy tiếng của một thủy thủ lảo luyện vang lên "nó chỉ có thể dừng lại ở một nơi gọi là địa ngục mà thôi." Rồi một màn sương biển khác ập đến, dày đặc hơn lúc nào hết. Cái khối sương ẩm ướt kia đã phủ một tấm vải xám lên mọi vật, và bây giờ người ta chỉ còn nghe thấy những giọng nói, tiếng gầm của thời tiết, tiếng vang của sấm sét, và rồi một tiếng động khủng khiếp truyền đi mơ hồ giữa các cơn sóng, lớn hơn tất cả các tiếng động trước đây. Hướng rọi sáng của đèn pha được giữ từ phía cổng hải cảng xuyên qua Vách Đá Phía Đông, và mọi người đều chờ đợi một cú sốc, tất cả đều nín thở.
Gió biển thình lình thổi dạt sang hướng bắc, và khối sương còn đọng lại cũng tan đi trong gió. Và, điều kỳ diệu đã xảy ra, giữa những nhịp đê, trườn mình lên những ngọn sóng, xông pha một cách liều lĩnh, con tàu buồm lạ lùng kia vẫn lướt đi cùng gió, tất cả các cánh buồm giương cao, và cập bến an toàn vào cảng. Ánh đèn pha vẫn dõi theo nó, và tất cả mọi người khi trông rõ nó đều rùng mình bởi họ nhìn thấy một thi hài được buộc chặt nơi bánh lái con tàu, đầu gục xuống, lắc lư một cách kinh khiếp theo từng nhịp sóng. Không còn ai khác ở trên tàu.
Một nỗi kinh khiếp lan đi giữa mọi người, khi họ nhận thấy rằng con tàu kia, bằng một phép màu kỳ diệu, đã tìm về được hải cảng dưới bàn tay cầm bánh lái của một người đã chết. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra còn nhanh hơn hơn là chúng được ghi lại. Chiếc tàu buồm kia không dừng lại, cứ thế đâm sầm qua cảng, lao vào khối cát và sỏi được tráng lên bởi những cơn sóng thủy triều và những cơn bảo thổi về góc phía nam của bến tàu nhô lên dưới Vách Đá Phía Đông, được gọi là Ngọn Đồi Bến Tàu Tate.
Tất nhiên là con tàu chịu một sự chấn động khủng khiếp khi nó lao vào khối cát. Tất cả cột trụ, dây thừng, dây néo đều căng lên, rồi sập xuống như bị một cây búa khổng lồ nện xuống. Nhưng lạ lùng hơn hết thảy là ngay khi con tàu chạm vào bờ biển, một con chó khổng lồ đã phóng vụt xuống, và giống như bị kích thích bởi sự chấn động, đã phóng vội đi, nhảy những bước dài trên các mô cát.
Nó chạy thẳng về phía vách đá cao, nơi có một con đường dẩn từ khu nghĩa địa vào Bến Tàu Phía Đông, nơi có một ngôi mộ hay những bia đá được gọi bằng những thứ tiếng địa phương của Whitby. Người ta đã có kế hoạch trùng tu lại vách đá để nó đừng đổ ập xuống. Con chó biến mất vào bóng tối, điều này càng gây nên ấn tượng mạnh khi mà ánh đèn pha vẫn dõi chặt theo nó.
Khi điều này xảy ra thì chẳng có ai ở Ngọn Đồi Bến Tàu Tate cả, bởi vì tất cả ngôi nhà ở đó đều đóng chặt cửa để đi ngủ hoặc leo lên trên đồi để quan sát. Đoạn người lính tuần duyên đang làm phận sự ở phía tây hải cảng chạy xuống bến tàu nhỏ, anh ta là người đầu tiên leo lên boong. Những người điều khiển đèn pha, sau khi sục xạo lối vào hải cảng mà chẳng thấy gì thêm, bèn chiếu hờ hững ánh đèn lên tàu và giữ nó ở yên đấy.
Người lính tuần duyên chạy xuống đuôi tàu, đến bên bánh lái để kiểm tra, và thình lình giật lùi lại như gặp phải một biến cố gì đó thình lình. Điều này càng khêu gợi sự tò mò chung, và một lượng lớn người bắt đầu chạy đến.
Có một con đường vòng từ Vách Đá Phía Tây đi qua cây cầu Draw dẩn đến Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, và người phóng viên trung thành của bạn là một tay chạy rất tuyệt, anh ta đã dẩn dầu đông. Tuy nhiên, khi tôi đến nơi, tôi thấy một đám đông đã bao quanh bến tàu, nhưng những người lính tuần duyên và cảnh sát không cho phép ai vào cả. Nhưng đội trưởng của những người chèo thuyền thuê đã thật lịch lãm khi cho phép tôi, người phóng viên trung thành của bạn, được phép leo lên boong. Ở đây có một nhóm nhỏ đang quan sát người thủy thủ chết lúc này vẫn còn bị buộc chặt vào bánh lái.
Không có gì lạ khi người lính tuần duyên tỏ ra ngạc nhiên, thậm chí kinh sợ trước những gì được nhìn thấy.
Người chết chỉ bị buộc hai tay vòng qua bánh lái để anh ta được giữ chặt với nó. Nắm giữa tay anh và lớp gỗ là một cây thánh giá, một chuỗi tràng hạt được buộc vòng quanh cổ tay anh và bánh lái, và được giữ chặt bằng một những sợi thừng buộc lại. Người đàn ông khốn khổ đã không bị ngồi xuống bởi những cánh buồm đã được đặt xuyên qua bánh lái, giữ anh ta lắc lư quật anh ta lên xuống qua lại, và những sợi thừng trói anh ta đã cắt qua da thịt vào đến tận xương.
Người ta ghi chép cẩn thận lại mọi chuyện, và một bác sĩ, bác sĩ giải phẫu J.M.Caffyn, ở 33, Vùng Đông Elliot, người đến ngay sau tôi, sau khi kiểm tra, đã nói rằng người đàn ông này đã chết được khoảng hai ngày.
Trong túi anh ta là một cái chai, mà sau khi mở nút, người ta cẩn thận lấy ra một cuộn giấy, những thứ sau này được biết là phần thêm vào của nhật ký hàng hải.
Người lính tuần duyên nói rằng người đàn ông này đã tự trói mình, và buộc gút bằng răng. Sự kiện người lính tuần duyên là người đầu tiên lên tàu đã gây ra những sự rắc rối sau này, vì theo luật hải quân, người lính tuần duyên không có quyền đòi hỏi quyền lợi mà một thường dân sẽ được hưởng nếu anh ta đi vào một con tàu bỏ hoang. Tuy nhiên, việc tranh cãi về tính hợp pháp để sỡ hữu những tài sản này sẽ còn được tranh cãi, một sinh viên luật trẻ đã lớn tiếng chứng minh rằng dù người chủ nhân có toàn quyền dâng hiến tài sản của mình, tuy nhiên việc chiếm hữu toàn bộ những tài sản là không hợp pháp, bởi vì bánh lái vẫn còn được giữ trong tay người chết như là một sự tượng trưng cho sự sở hữu.
Chẳng cần phải nói thêm là người thủy thủ xấu số đã được mang đi chôn cất một cách trang trọng từ cái nơi mà anh ta đã dũng cảm gìn giữ danh dự của mình cho đến chết, với một tinh thần kiên định đầy quả cảm như chàng Casabianca trẻ tuổi, và đám tang của anh ta sẽ được cử hành sau cuộc điều tra.
Lúc này bảo đã tạnh, thiên nhiên không còn hung dữ nữa. Đám đông đang giải tán rải rác, và bầu trời lại ửng hồng trên khắp miền Yorkshire.
Trong những kỳ phát hành sắp tới tôi sẽ tiếp tục gửi đến quý vị những chi tiết về con tàu hoang đã vượt qua cơn bảo một cách kỳ diệu để về đến bến cảng.
Ngày 9 tháng 8. - Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đã đến trong cơn bảo tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm rõ là đi từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với một số lượng nhỏ hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.
Những hàng hóa này được gửi cho một cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này đã lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.
Lãnh sự Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v...
Không có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ một sự trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại đã xác nhận hoàn toàn mọi sự việc đã được làm đúng theo luật lệ. Cái điều không thể tin được'đã xảy ra, ủy ban này đã cho thấy một cách rõ ràng là họ sẽ không đưa ra sự phàn nàn nào.
Sự chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó đã nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và một vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực trên Whitby đã nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì không thể tìm ra chú chó. Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hoảng sợ, con chó đã trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẫn là những vùng bí ẩn trên lãnh thổ.
Một số người đã sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì rõ ràng nó đã là một sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy một con chó lớn, thuộc một giống chó lớn tai cụp lai của một thương gia buôn bán than đang nằm chết trên con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. Đã có một trận chiến diễn ra, và rõ ràng là con chó đã có một đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó thì bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.
Đêm khuya. - Do sự tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẫn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ sự kiện một số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy một câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.
Do không có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn một bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng đã bị một cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh đã tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẫn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được một thư ký của lãnh sự Nga đã tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.
NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA "DEMETER" VARNA ĐI WHITBY
Được viết vào ngày 18 tháng 7, đã có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi sẽ ghi chép lại thật chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.
Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa thì giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm... hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).
Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong.
Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến đi lúc 4 giờ chiều.
Đến 12 tháng 7 thì đi ngang Daradnelles. Thêm một số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh chóng. Họ muốn chúng tôi đi sớm. Đến tối thì vào Archipelago.
Đến 13 tháng 7 thì đi ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đoàn hình như không hài lòng về một chuyện gì đó. Một số sợ hãi, nhưng không nói ra.