Bá Tước Dracula - Chương 06 phần 2

Unmute
Advertisement
Loaded: 0%
Progress: 0%
Remaining Time-0:22
Skip ad
Ông ta rõ ràng là có một điều gì ám ảnh sâu trong tâm hồn, vì ông ta có bên mình một cuốn sổ tay, ông ta thường ghi chép vội vã vào đó. Có trang thì ông ta vẽ đầy những con số được xếp thành dãy, tổng số của chúng lại được xếp thành từng dãy khác, và ông ta chăm chú tính toán như một kế toán viên thực thụ.
Ngày 8 tháng 7. - Lại có một trò điên của ông ta, và cái ý tưởng phôi thai trong tôi đang định hình dần. Nó sẽ trở thành một ý nghĩ toàn vẹn sớm thôi, đó là một hoạt động không ý thức của nảo.
Tôi tránh mặt bạn bè vài ngày để quan sát mọi sự thay đổi có thể diễn ra. Chẳng có gì mới, ngoại trừ việc ông ta chia tay với một số con vật thân thiết của mình và bắt thêm một số mới.
Ông ta cố gắng bắt được một con chim sẻ và ra sức thuần hóa nó. Quá trình thuần hóa của ông ta dẩn đến một kết quả đơn giản là giảm bớt số nhện đi. Tuy nhiên số còn lại vẫn cần phải ăn, và ông ta lại tiếp tục dùng thức ăn của mình để quyến rũ loài ruồi.
Ngày 19 tháng 7. - Chúng ta lại có sự tiến bộ mới đây. Ông bạn của tôi đã có được một tập đoàn chim sẻ, còn lũ ruồi và nhện thì đã gần như tiêu ma hoàn toàn. Khi tôi đến ông ta chạy ào đến chỗ tôi và nói rằng ông ta muốn yêu cầu tôi một đặc ân, một đặc ân rất quan trọng. Và trong khi nói, ông ta xun xoe chung quanh tôi như một con chó.
Tôi hỏi ông ta xem đặc ân đó là gì, và ông ta nói với dáng vẻ và giọng điệu đầy hí hửng, "Một con mèo con, một con mèo con khỏe mạnh, dễ thương để tôi chơi với nó, và cho nó ăn, cho nó ăn, cho nó ăn!"
Tôi chưa chuẩn bị cho một yêu cầu như vậy, nhưng chẳng khó để nhận ra rằng cái lũ vật nuôi của ông ta ngày càng gia tăng về kích cỡ và sự tiến hóa, và tôi không dám chắc là cái bầy sẻ được thuần dưỡng của ông ta rồi sẽ được biến đi cùng một cách với lũ ruồi và nhện hay không. Vì vậy tôi hỏi xem vì sao ông ta không chọn một con mèo lớn thay cho một chú mèo con.
Sự hăm hở của ông ta đã phản bội lại ông khi ông trả lời, "Ồ, vâng, tôi thích một con mèo! Tôi chỉ xin một con mèo con vì ngài có thể từ chối tôi một chú mèo lớn. Tôi sẽ có một con mèo con chứ ạ?"
Tôi lắc đầu, và nói rằng hiện giờ thì tôi e rằng điều đó là chưa được, nhưng tôi sẽ xem xét nó. Khuôn mặt ông ta xịu xuống, và tôi có thể thấy những nét đe dọa và nguy hiểm bên trong nó, manh nha một ý định giết người.
Con người có một bản năng điên dại giết người tiềm ẩn trong mình. Tôi sẽ kiểm tra ông ta qua yêu cầu mà ông vừa đưa ra và xem mọi chuyện diễn tiến như thế nào, tôi sẽ biết rõ thêm.
Mười giờ tối. - Tôi thăm ông ta lần nữa và thấy ông ta đang ngồi ngẫm nghĩ ở một góc phòng. Khi tôi đến, ông ta quỳ sụp xuống trên đầu gối và khẩn nài ông ta cho ông một con mèo, rằng sự cứu rỗi của ông ta phụ thuộc vào đó.
Tuy nhiên tôi rất cương quyết nói rằng yêu cầu này là không thể giải quyết được. Vậy là ông ta không nói thêm nữa lời, quay về góc của mình và gặm ngón tay. Tôi sẽ gặp lại ông ta vào sáng sớm mai.
Ngày 20 tháng 7. - Tôi đến thăm Renfield rất sớm, trước khi những người chăm sóc mang ông ta đi dạo. Tôi thấy ông ta đang ư ử một giai điệu vo ve. Ông ta ve vẩy cục đường mà ông ta còn để dành được ra ngoài cửa sổ, với một ý định rõ ràng là tái lập lại cái trò bắt ruồi, với một sự khởi đầu đầy hứng khởi và khéo léo.
Tôi nhìn quanh tìm những con chim của ông ta, nhưng chẳng thấy đâu. Tôi bèn hỏi ông ta xem chúng đâu.
Ông ta trả lời mà chẳng buồn quay lại rằng chúng đã bay mất rồi. Có một đám lông vũ vung vãi trong phòng, máu rỏ ra từ cái xích của ông ta. Tôi không nói gì thêm, quay ra dặn người coi giữ phòng phải báo cáo ngay với tôi tất cả những gì lạ lùng xảy đến với ông ta trong ngày.
11 giờ sáng. - Người chăm sóc phòng vừa đến nói rằng Renfield đang bệnh và ông ta nôn ra toàn lông chim.
"Thưa bác sĩ, tôi tin rằng ," anh ta nói, "ông ta đã ăn những con chim của mình. Ông ta đã bắt và ăn sống chúng."
11 giờ tối. - Tôi cho Renfield uống một liều thuốc ngủ mạnh khiến ông ta nằm mê đi, rồi lấy cuốn sổ trong túi ông ta ra để đọc. Những điều thắc mắc lẩn quẩn trong đầu tôi đã được giải đáp, những lý thuyết của tôi đã được chứng minh.
Tôi gặp một trường hợp bản năng cuồng sát đặc biệt. Tôi nghĩ ra một cách giải thích khác cho trường hợp của ông ta, mà tôi gọi là sự cuồng ăn thịt (thịt sống). Cái mà ông ta muốn là hút càng nhiều sự sống vào người càng tốt. Ông ta cho một con nhện ăn nhiều con ruồi, một con chim ăn nhiều con nhện, rồi ông ta muốn một con mèo ăn nhiều con chim. Tiếp theo ông ta sẽ muốn tới cái gì đây?
Cái giá phải trả để hoàn tất những kinh nghiệm này cũng đáng lắm chứ. Nó sẽ hoàn thành nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng. Loài người đã từng chế nhạo việc mổ xẻ, nhưng hãy nhìn những thành tựu mà công việc này đem lại ngày nay! Vì sao sự phát triển của khoa học luôn gặp phải những khó khăn và thách đố vì những định kiến từ đầu óc con người?
Nếu tôi nắm được bí mật này, tôi sẽ biết được điều cốt yếu để đi sâu vào tâm hồn những người mất trí, tôi sẽ có những sự đóng góp đáng giá vào khoa học để so sánh với nhà sinh lý học Burdon - Sanderson hoặc thiên tài Ferrier. Nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng! Đừng nghĩ nhiều về nó, hoặc là tôi sẽ làm cho mình trở nên kích động mất. Một điều khiến tôi bình tâm, đó là tôi không phải là một người có tài năng đặc biệt bẩm sinh.
Sự suy luận của con người thật tuyệt vời. Những người mất trí luôn sống trong một thế giới riêng của họ.
Không hiểu người đàn ông này đánh giá một con người bằng với bao nhiêu sự sống, hay chỉ bằng một thôi.
Ông ta đã gần tính chính xác được rồi, và hôm nay ông ấy lại bắt đầu một bản ghi mới. Ai trong số chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu mỗi ngày để tính toán về sự sống của chính chúng ta.
Tối qua cuộc sống của tôi đã gần như kết thúc đối với tôi và tôi thật sự đang bắt đầu tính toán lại cho mình một cuộc sống mất. Nó sẽ tiếp tục cho đến khi Quan Tòa Vĩ Đại cộng hết tất cả lại cho tôi trong một con tính cuối cùng, cân bằng lại cho tôi những lợi nhuận và mất mát của tôi.
Ôi, Lucy, anh không thể giận em, cũng như không thể giận bạn mình, người đang hạnh phúc cùng em. Nhưng anh chỉ có thể đợi chờ trong hy vọng và làm việc. Làm việc! Làm việc!
Nếu như tôi có thể mạnh mẽ được như người bạn mất trí tội nghiệp của tôi nhỉ, với một lý do tốt đẹp, không vị kỷ để làm công việc của tôi. Đó sẽ là điều hạnh phúc thật sự.
NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY
Ngày 26 tháng 7. - Tôi thật là lo âu, và chỉ có thể xoa dịu bằng cách tự kể với mình bằng những trang nhật ký này. Điều đó giống như một người tự thì thầm và lắng nghe chính mình cùng lúc. Và đó cũng là lý do tôi dùng những ký hiệu viết tắt, nó gây ra cảm giác khác biệt so với chữ viết thường. Tôi không vui về Lucy và Jonathan.
Tôi chẳng có tin tức gì về anh Jonathan thời gian qua, và rất lo lắng. Nhưng hôm qua ngài Hawkins đáng mến, người luôn luôn tỏ ra tốt bụng, đã chuyển cho tôi bức thư của anh ấy. Tôi đã viết thư hỏi thăm anh ấy, anh ấy trả lời là đã nhận được thư. Và chỉ có một hàng đề ngày tháng từ Lâu đài Dracula , báo tin anh ấy đang bắt đầu trở về nhà. Chẳng giống Jonathan tí nào. Tôi hoàn toàn không hiểu gì, và điều này làm tôi bất an.
Lại còn Lucy nữa. Mặc dù bạn ấy vẫn khỏe, nhưng dạo gần đây bệnh mộng du của bạn ấy bắt đầu quay trở lại.
Mẹ bạn ấy có bàn về chuyện này với tôi, và chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ khóa cửa phòng chúng tôi mỗi tối.
Bà Westenra có cho tôi biết là những người mộng du hay đi trên mái nhà, đi dọc theo những cạnh đá. Thình lình họ tỉnh giấc và rơi xuống với những tiếng kêu thảng thốt làm vang động chung quanh.
Bà mẹ tội nghiệp tất nhiên là rất lo lắng cho Lucy. Bà ấy nói với tôi là chồng bà, tức cha Lucy, cũng có thói quen như vậy. Ông ấy thức giấc vào nữa đêm, tự thay quần áo và đi ra ngoài nếu không ai đánh thức dậy.
Lucy sẽ cưới vào mùa thu, và bạn ấy đang chuẩn bị quần áo và nhà cửa của mình. Tôi thông cảm với bạn ấy, tôi cũng sẽ làm như vậy nếu tôi là bạn ấy.Chỉ có điều tôi và anh Jonathan sẽ sống một cuộc sống đơn giản, và sẽ cố hòa hợp hai lối sống với nhau.
Anh Holmwood, anh ấy tên là Hon. Arthur Holmwood, là con trai duy nhất của ngài Godalming, thỉnh thoảng lại đến, ngay khi anh ấy có thể rời thị trấn được, vì cha anh ấy không được khỏe. Tôi thấy Lucy luôn khắc khoải chờ anh ấy đến.
Bạn ấy luôn muốn ngồi cùng anh ấy trên khu đất nhà thờ, chỉ cho anh ấy cảnh đẹp miền Whitby. Tôi dám chắc là sự chờ đợi làm bạn ấy rối tung lên, và bạn ấy trở lại bình thường khi anh ấy đến chơi.
Ngày 27 tháng 7. - Chẳng có tin tức gì của anh Jonathan. Tôi cảm thấy vô cùng lo lắng cho anh, nhưng tôi chẳng biết phải làm gì. Ước gì anh ấy viết cho tôi, dù chỉ một hàng.
Lucy lại càng hay mộng du, mỗi đêm tôi đều bị đánh thức bởi tiếng chân bạn ấy lang thang khắp phòng. May là dạo này trời nóng nên bạn ấy không bị nhiễm lạnh. Nhưng sự xáo động liên tục ấy rốt cuộc đã ảnh hưởng đến tôi, tôi trở nên căng thẳng và mất ngủ. Tạ ơn Chúa, sức khỏe của Lucy vẫn ổn. Anh Holmwood vừa đột ngột được gọi về gặp mặt cha, vì ông ấy yếu đi nhiều. Lucy cáu kỉnh vì bị chia cắt, nhưng không để lộ điều ấy ra mặt. Bạn ấy cố đùa cợt, và má bạn ấy đỏ hồng lên thật đáng yêu. Bạn ấy không còn xanh xao nữa. Tôi mong sao điều ấy diễn ra mãi.
Ngày 3 tháng 8. - Lại một tuần nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì về anh Jonathan, hay thậm chí là từ ông Hawkin, người tôi đang nóng lòng chờ đợi. Ôi, tôi mong sao anh ấy đừng ngã bệnh. Anh ấy phải nên viết cái gì cho tôi chứ. Tôi xem lại bức thư cuối cùng của anh ấy, nhưng nó chẳng làm tôi thỏa mãn. Nó không giống cách anh ấy viết, dù là nét chữ của anh ấy. Không thể sai lầm được.
Trong tuần này Lucy không mộng du nhiều như trước, nhưng bạn ấy có cái vẻ quan tâm là lạ nào đó mà tôi không hiểu, hình như ngay trong khi ngủ bạn ấy cũng theo dõi tôi. Bạn ấy thử mở cửa, và khi thấy cửa khóa thì bạn ấy lùng sục trong phòng để tìm chìa khóa.
Ngày 6 tháng 8. - Lại ba ngày nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì. Khoảng thời gian chờ đợi này thật là chết người. Chỉ cần biết một nơi nào đó để viết vài chữ hay để đi đến, tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng chẳng ai biết gì thêm về Jonathan kể từ lá thư cuối cùng của anh ấy. Tôi chỉ còn biết cầu Chúa để giúp mình kiên nhẫn hơn.
Lucy trở nên kích động hơn, nhưng ngoài ra mọi thứ đều tốt đẹp. Đêm hôm qua tiết trời có vẻ là lạ, và những người đánh cá nói rằng sắp có một cơn bảo ập đến chỗ chúng tôi. Tôi phải học cách quan sát và đoán nhận từ những dấu hiệu do thời tiết mang lại mới được.
Ngày hôm nay thật là u ám, và khi tôi viết những dòng này thì mặt trời đã ẩn vào những đám mây dày che phủ miền Kettleness. Mọi thứ đều u ám ngoại trừ bãi cỏ xanh nổi lên như một viên ngọc lục bảo giữa phong cảnh chung quanh. Những mỏm đá màu xám, những đám mây màu xám, pha lẫn với ánh mặt trời nhàn nhạt xa xa, trôi lững lờ trên mặt biển, phủ một màu xám lên toàn bộ bức tranh thiên nhiên. Biển như tràn ngập lên tất cả những chỗ cạn và những dãi cát với một màn sương hung dữ, dày đặc từ đại dương đi vào đất liền.
Chân trời đã biến mất trong màn sương xám xịt này. Tất cả đều mênh mông xa vắng, mây trời thì ùn ùn kéo lại thành từng lớp như những tầng đá khổng lồ, và thỉnh thoảng lại có những tiếng kêu vang dội khắp mặt biển như vang lên từ địa ngục. Một bóng đen thỉnh thoảng lại xuất hiện trên mặt biển, đôi khi chìm khuất trong màn sương, giống như một người đàn ông đang đi bộ trên những mãnh ván. Những chiếc thuyền đánh cá vội vã quay trở vào bờ. Sóng biển cuồn cuộn hung hãn đập vào bờ như muốn cuốn phăng cả hải cảng đi, rồi rút ra qua những lỗ thông nước. Ông bạn già Swales đến thăm. Ông ta đi thẳng lại chỗ tôi, và qua cái cách ông ta nhấc mũ thì tôi hiểu rằng ông ta muốn nói chuyện.
Tôi có phần xúc động trước sự thay đổi nơi người đàn ông tội nghiệp già cỗi này. Khi ông ấy ngồi cạnh tôi, ông nói với một vẻ rất lịch thiệp, "Tôi muốn nói với cô đôi điều, thưa cô."
Tôi thấy ông ấy không bình tĩnh lắm, nên tôi nắm lấy bàn tay nhăn nheo già nua của ông trong tay tôi và nói ông ấy hãy cứ nói hết.
Ông ta rút tay ra khỏi tay tôi và nói, "Cô bé yêu quý của tôi, tôi sợ rằng sẽ làm cô bị sốc với những điều khủng khiếp tôi sắp nói ra về cái chết.Trong những tuần qua tôi đã không nói về chúng, nhưng tôi muốn cô nhớ kỹ khi tôi đã ra đi. Chúng tôi là những kẻ lang thang sau những bánh lái đi khắp mọi nơi trên trái đất, mà chẳng có ai buồn nghĩ đến nó, chúng tôi cũng chẳng sợ hãi gì về nó. Trái tim tôi tự hào rằng tôi hoàn toàn xem thường cái chết. Nhưng mà, cô bạn ạ, Chúa sẽ phù hộ cho cô, tôi chẳng sợ gì cái chết, nhưng tôi không muốn chết nếu như tôi vẫn còn có thể tìm thấy lối thoát.
Thời điểm của tôi đã sắp đến rồi, và tôi biết rằng, một trăm năm là một cuộc đời dài so với cuộc sống của một con người, và tôi đã cảm thấy lảo Thần Chết đang vung lưỡi hái của lảo đâu đây. Cô thấy đấy, tôi vẫn chưa dứt được thói quen đùa cợt với nó. Cái lưỡi hái ấy lảo vẫn thường vung lên trước mặt tôi như một trò đùa quen thuộc của hắn. Rồi sắp đến hắn sẽ thổi lên tiếng kèn gọi của hắn cho tôi. Nhưng cô đừng tỏ ra như thế chứ, cô bạn thân yêu!" - đó là lúc ông ấy thấy tôi đang khóc - "nếu hắn đến vào lúc khuya khoắt này tôi sẽ từ chối chẳng thèm trả lời lời gọi của hắn đâu. Cuộc sống là cái mà, sau khi những gì mà người ta làm được, người ta chờ đợi một cái gì khác xảy đến, thì cái chết chính là cái điều hợp lý để đợi chờ. Nhưng tôi hài lòng nếu nó đến với tôi, cô bạn thân mến, và hãy đến nhanh lên.
Nó có thể đến trong khi đang được trông ngóng và đợi chờ. Có thể nó nằm đâu đó trong những cơn gió biển đang mang đến sự mất mát và tàn phá, làm tâm hồn tan nát, làm con tim nhói đau. Nhìn xem! Nhìn xem!" ông ta đột ngột kêu lên. "Có một cái gì đó trong cơn gió này. Nó mang theo mùi vị, âm thanh, mang theo sắc màu của cái chết. Nó đâu đó trong không khí. Tôi cảm thấy nó đang đến đấy. Chúa ơi, hãy làm cho vui sướng khi ngài gọi con!" Ông ta giơ tay lên một cách nhiệt thành, nhấc mũ lên. Môi ông ta mấp máy như đang cầu nguyện. Sau vài phút im lặng, ông ấy đứng dậy, bắt tay tôi, chúc phúc cho tôi, rồi chào tạm biệt và khập khiễng bước đi. Điều này làm tôi xúc động tận tâm can và buồn rầu không ngớt.
Tôi vui lên khi người lính tuần duyên đi đến một mình, với cái kính viễn vọng trong tay. Ông ta dừng chân nói chuyện với tôi như mọi khi, nhưng vẫn chăm chú theo dõi một con tàu lạ.
"Con tàu này lạ quá," ông ta nói. "Nó là tàu Nga, qua dáng vẻ bên ngoài. Nhưng nó kéo còi liên tục một cách dị thường. Hình như chẳng có ai điều khiển nó. Giống như nó thấy trước một cơn bảo, nhưng không biết là nên chạy thẳng lên phía bắc để tránh hay cập vào đây. Nhìn lại xem! Nó di chuyển rất kỳ quặc, hình như chẳng có ai điều khiển bánh lái cả. Cứ mỗi cơn gió lại làm nó đổi hướng. Ngay trước sáng mai chúng ta sẽ biết thêm về nó."